Nguồn gốc và ý nghĩa của ngày Tết Trung thu

Chia sẻ ngay nếu bạn thấy hay...

Tết Trung thu

Theo Âm lịch, ngày 15/8 là chính giữa mùa thu được coi là ngày “lành” để làm lễ tế thần mặt trăng để người xưa tiên đoán mùa màng và cũng là dịp tết vui chơi của trẻ nhỏ.

Tết Trung thu tổ chức vào dịp chính giữa mùa thu (Ảnh minh họa).

Nguồn gốc ngày Tết Trung thu ở Trung Quốc

 

Theo văn hóa dân gian Trung Quốc, lễ hội trăng tròn gắn liền với truyền thuyết Hậu Nghệ, Hằng Nga, thỏ ngọc và nguyệt bánh.

Trung thu hay ngày hội trăng rằm là dịp lễ lớn thứ 2 trong năm của Trung Quốc, sau Tết Nguyên Đán. Vào ngày 15/8 âm lịch hàng năm, các thành viên trong gia đình cùng quây quần bên bữa cơm đoàn tụ và thưởng thức bánh Trung thu. Người dân ở đây có nhiều truyền thuyết để giải thích sự ra đời của ngày Tết này.

1. Truyền thuyết Hằng Nga và Hậu Nghệ

Truyền thuyết về Hằng Nga và Hậu Nghệ có nhiều dị bản khác nhau. Phiên bản phổ biến nhất được lưu truyền như sau: Vào thời xa xưa, trên bầu trời xuất hiện cùng lúc 10 mặt trời, thiêu đốt cỏ cây và khiến cuộc sống con người khốn khó. Lúc này, một cung thủ có tên Hậu Nghệ xuất hiện và bắn rụng 9 mặt trời. Anh đã để lại một mặt trời, hàng ngày tỏa sáng và đem lại sự sống tốt tươi cho trái đất. Sau đó, Hậu Nghệ gặp gỡ và kết hôn cùng một người phụ nữ tốt bụng, xinh đẹp tên Hằng Nga.

Những truyền thuyết về tết trung thu ở Trung Quốc

Hình tượng Hậu Nghệ, Hằng Nga xuất hiện nhiều trong các tác phẩm tranh và phim điện ảnh Trung Quốc. Ảnh: Etsy.

Để trả ơn cho Hậu Nghệ, Tây Vương Mẫu đã ban cho anh một viên thuốc trường sinh bất tử để giúp anh thành thần. Tuy nhiên, vì muốn sống bên người vợ của mình, Hậu Nghệ đã cất giấu viên thuốc trong một chiếc hòm. Sự việc truyền đến tai Bàng Mông (Peng Meng), một học trò của Hậu Nghệ. Hắn đã nảy sinh ý đồ đánh cắp viên thuốc. Khi Hậu Nghệ đi săn, tên học trò đã ép Hằng Nga phải giao viên thuốc. Trong tình huống cấp bách, cô đành nuốt trọn viên thuốc tiên và hóa phép bay thẳng về trời. Để được gần bên chồng, Hằng Nga ở lại cung trăng, ngày đêm trông ngóng về quê hương.

Vì quá thương nhớ người vợ hiền, cứ vào dịp trăng tròn, Hậu Nghệ lại bày một mâm cỗ với những món vợ thích, mong cô có thể trông thấy từ cung trăng. Phong tục này được người dân noi theo và dần trở thành lễ Trung thu, với mong ước sum vầy và cầu may từ Hằng Nga.

2. Truyền thuyết thỏ ngọc

Theo truyền thuyết, trước đây, có 3 vị thần đã cải trang thành những ông già nghèo khó để thử lòng cáo, khỉ và thỏ. Sau khi khỉ và cáo trao cho họ thức ăn, chỉ còn lại duy nhất thỏ không có gì. Tuy nhiên, vì lòng tốt bụng, thỏ trắng liền nói” “Các vị hãy ăn thịt tôi” và nhảy vào lửa. Quá cảm động trước tấm lòng của thỏ, 3 vị thần đã đưa nó lên cung trăng. Từ đó, thỏ ngọc ở lại đây với Hằng Nga, hàng ngày giã thuốc trường sinh cho các vị thần.

Tranh vẽ về Hằng Nga và thỏ ngọc trên cung trăng. Ảnh: Hubei China.

Tranh vẽ về Hằng Nga và thỏ ngọc trên cung trăng. Ảnh: Hubei China.

3. Truyền thuyết về bánh Trung thu

Món ăn này xuất hiện cách đây 3.000 năm trước, trong triều nhà Thương với tên gọi Taishi. Tuy nhiên, vào cuối triều Nguyên (triều đại do những người Mông Cổ thành lập 1271 – 1368), người dân đã không thể chịu sự cai trị tàn khốc của triều đình. Vì vậy, Chu Nguyên Chương, người sau này sáng lập triều đại Minh, đã hợp nhất các lực lượng để nổi dậy.

Tuy nhiên, ông buồn phiền vì không thể tìm ra cách để truyền đi những thông điệp. Lúc đó, người cố vấn của ông là Lưu Bá Ôn đã hiến một kế sách. Họ dùng giấy viết, hẹn ngày khởi nghĩa vào đêm trăng sáng, tức 15/8 âm lịch, đặt vào giữa của những chiếc bánh hình tròn và gửi làm quà tặng cho các lực lượng binh mã.

Bánh nướng trung thu thường chứa nhân đậu đỏ và hạt sen. Ảnh: Bens Independent.

Bánh nướng Trung thu thường chứa nhân đậu đỏ và hạt sen. Ảnh: Bens Independent.

Sau đó, cuộc chiến thành công, Chu Nguyên Chương lập nên triều đại nhà Minh. Từ đó, ăn nguyệt bánh vào ngày trăng tròn đã trở thành một phong tục trong ngày lễ Trung thu. Ngày này, những thành viên trong gia đình cùng nhau ăn tối, tặng bánh như một lời cầu chúc sức khỏe, tròn đầy.

Nguồn gốc ngày Tết Trung thu ở Việt Nam

Trung thu, là giữa mùa thu. Tết Trung thu như tên gọi là ngày giữa mùa thu, tức là vào rằm (ngày 15) tháng Tám âm lịch. Tết Trung thu tại Việt Nam không biết có tự bao giờ, không có sử liệu nào nói rõ về gốc tích của ngày lễ rằm tháng 8.

Sự tích Tết trung thu là những câu chuyện đầy thú vị về chị Hằng, chú Cuội, thỏ ngọc, đèn ông sao… được rất nhiều trẻ em háo hức lắng nghe. Cho đến ngày nay dân gian vẫn lưu truyền nhiều sự tích, nguồn gốc và ý nghĩa liên quan tới dịp đặc biệt này.

Tết trung thu là một trong những nét đẹp truyền thống văn hóa Việt Nam, trở thành ngày tết sum vầy với mọi gia đình. Tết thường diễn ra vào rằm tháng 8 đang giữa độ mùa thu tiết trời mát mẻ và đẹp nhất trong năm. Ngày tết này còn được gọi với cái tên thú vị là Tết trông trăng được nhiều trẻ em mong đợi vì dịp này thường được người lớn tặng quà, tổ chức cắm trại hay phá cỗ với nhiều hoạt động khác.

1. Sự tích tết trung thu

Tết Trung Thu thường diễn ra theo âm lịch là ngày rằm tháng 8 hằng năm. Tục vui Tết Trung-Thu đã có từ thời Đường Minh Hoàng bên Trung-Hoa, vào đầu thế kỷ thứ tám (713-755). Về sau được lan rộng ra các nước láng giềng và thuộc địa của Trung Hoa.

Tại Việt Nam sử sách không nói rõ dân ta bắt đầu tổ chức Tết trung thu từ bao giờ. Chỉ biết rằng mấy trăm năm trước tổ tiên ta đã theo tục này. Ngay từ đầu tháng 8 âm lịch các khu chợ đã trưng bày nhiều mặt hàng mang màu sắc Trung thu như lồng đèn, bánh nướng, bánh dẻo. Người mua với người xem đông như hội. Ngoài các loại đồ chơi, đồ trang trí, bánh kẹo còn trưng bày nhiều loại mặt nạ, đầu lân sư tử.

Ở Việt Nam, ngày tết Trung Thu được ông Phan Kế Bính diễn tả trong “VN Phong tục”: “ban ngày làm cỗ cúng gia tiên, tối đến bày cỗ thưởng Nguyệt. Ðầu cỗ là bánh mặt trăng, và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả, nhuộm các màu các sắc, sặc sỡ xanh, đỏ, trắng, vàng. Con gái hàng phố thi nhau tài khéo, gọt đu đủ thành các thứ hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con tôm con cá coi cũng đẹp”.

2. Sự tích chị Hằng Nga

Theo dân gian tương truyền thời xa xưa trên trời có 10 mặt trời cùng chiếu xuống mặt đất nóng đến bốc khói, biển hồ khô cạn người dân gần như không sống nổi. Chuyện này làm kinh động đến vị anh hùng tên Hậu Nghệ. Anh đã trèo lên đỉnh núi Côn Lôn, dùng thần lực giương nỏ thần bắn rụng 9 ông mặt trời. Hậu nghệ đã lập nên thần công cái thế nên nhận được sự kính trọng yêu mến của nhiều người và được nhiều chí sĩ đến tìm tầm sư học đạo, trong đó có Bồng Mông là một kẻ tâm thuật bất chính.

Không lâu sau Hậu Nghệ lấy người vợ xinh đẹp tốt bụng tên là Hằng Nga rất đẹp đôi. Vào một ngày, Hậu Nghệ đến núi Côn Lôn thăm bạn tình cờ gặp được Vương mẫu nương nương ngang qua bèn xin thuốc trường sinh bất tử. Nghe nói uống loại thuốc này  sẽ lập tức bay lên trời thành tiên.

Nhưng Hậu Nghệ không nỡ xa vợ hiền nên đưa thuốc bất từ cho Hằng Nga cất giữ vào hộp đựng gương lược của mình, không may bị Bồng Mông nhìn thấy.

Hậu Nghệ dẫn học trò ra ngoài săn bắn vài hôm thì Bồng Mông với tâm địa xấu xa đã giả vờ lâm bệnh xin ở lại. Đợi Hậu nghệ dẫn các học trò đi không lâu thì Bồng Mông cầm bảo kiếm đột nhập vào hậu viên ép Hằng Nga đưa thuốc bất tử. Do biết mình không phải đối thủ của Bồng Mông, trong lúc nguy cấp Hằng Nga lấy thuốc uống xong thấy người bỗng nhẹ rời khỏi mặt đất, hướng cửa sổ và bay lên trời. Nhưng còn vương vấn tình nghĩa vợ chồng nên chỉ bay đến mặt trăng là nơi gần với nhân gian nhất rồi trở thành tiên.

Hậu Nghệ trở về nhà thì các thị nữ vừa khóc vừa kể lại chuyện xảy ra với Hằng Nga. Hậu Nghệ vừa lo vừa giận đã rút kiếm tìm giết tên nghịch đồ nhưng Bồng Mông đã trốn đi từ lâu. Hậu Nghệ nổi giận nhưng chỉ biết vỗ ngực giậm chân kêu khóc. Trong lúc đau khổ, Hậu Nghệ đã ngửa cổ lên trời đêm gọi tên vợ hiền. Khi đó, anh kinh ngạc phát hiện ra, trăng hôm nay đặc biệt sáng ngời, mà còn có thêm một bóng người cử động trông giống Hằng Nga. Hậu Nghệ vội sai người đến hậu hoa viên nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên đó những món ăn và trái cây mà bình thường Hằng Nga thích ăn nhất, để tế Hằng Nga nơi cung trăng đang nhớ đến mình.

Sau khi Hằng Nga lên cung trăng thành tiên nữ, người dân lần lượt bày hương án dưới ánh trăng để cầu xin Hằng Nga ban may mắn bình an. Từ đó xuất hiện phong tục “bái nguyệt” vào Tết trung thu được lưu truyền trong dân gian.

Sự tích Tết trung thu ở Việt Nam cực kỳ thú vị và ý nghĩa - 3

3. Sự Tích Chú Cuội Cung Trăng

Chú Cuội ngồi gốc cây đa

Thả trâu ăn lúa gọi cha ồi ồi

Cha còn cắt cỏ trên trời

Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên

Ông thời cầm bút cầm nghiên

Bà thời cầm tiền đi chuộc lá đa.

Ở miền nọ có chàng tiều phu tên là Cuội, một lần đi rừng vào nhầm hang cọp cuội giật mình leo lên ngọn cây cao trốn. Cọp mẹ về hang thấy đàn con chết lả vì đói nên đến gần gốc cây chỗ Cuội ẩn đớp lấy ít lá mang về mớm cho đàn con. Bỗng nhiên chưa ăn giập 4 miếng trần, 4 chú cọp đã vẫy đuôi sống lại. Chờ cọp mẹ tha con đi nơi khác chú Cuội mới tìm cây lạ đào gốc mang về.

Trên đường về, Cuội gặp lão ăn mày nằm chết trên bãi cỏ vì vậy Cuội bất ngay mấy lá để cứu giúp lão ăn mày thoát cửa tử. Sau đó nghe Cuội kể câu chuyện, lão ăn mày kêu lên: “Đây là cây đa có phép “cải tử hoàn sinh”. Con chăm sóc cây đừng tưới nước bẩn kẻo cây bay lên trời đó”.

Từ ngày lấy được cây thuốc quý về trồng, Cuội đã cứu sống được nhiều người và được yêu mến kính nể. Trong một lần cứu sống con gái lão địa chủ chết đuối hồi sinh, cô đã xin lấy Cuội làm chồng. Đôi lứa hưởng những ngày hạnh phúc tuy nhiên cô vợ Cuội mắc tính hay quên. Những khi đi làm xa, Cuội dặn “có tiểu thì đi bên Tây, chớ tiểu bên Đông, cây dông lên trời” mà cô vợ như lú lẫn ruột gan, vừa nghe xong là quên ngay.

Vào một buổi chiều, cô vợ không nhớ lời dặn cứ nhắm vào cây quý tiểu. Bỗng nhiên mặt đất chuyển động, gió thổi ào ào, cây đa đảo mạnh, bật gốc phi lên trời xanh. Đúng lúc, Cuội đi kiếm củi về, hớt hải nhảy bổ đến níu cây lại. Nhưng sức người có hạn, cây đa kéo cả Cuội cứ thế bay lên cung trăng. Từ đấy, cứ mỗi dịp ngày rằm, ánh trăng sáng nhất, khi ngước nhìn lên, người ta thấy một vết đen hình cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc. Đó chính là chú Cuội đang chờ ngày được trở về trần gian.

Sự tích Tết trung thu ở Việt Nam cực kỳ thú vị và ý nghĩa - 4

4. Sự tích Thỏ ngọc

Tương truyền xa xưa có một cặp thỏ tu luyện đắc đạo thành tiên đến diện kiến Ngọc Hoàng Thượng Đế. Khi tới Nam Thiên Môn, thỏ tiên bất chợt thấy Hằng Nga đang bị Thái Bạch Kim Tinh áp giải lên cung trăng. Sau khi nghe kể lại mọi chuyện thỏ tiên động lòng thương cảm Hằng Nga vì cứu bách tích mà phá luật trời.

Khi về nhà thỏ tiên kể lại câu chuyện với gia đình và bàn với đàn thỏ con muốn đứa thỏ út lên cung trăng bầu bạn với chị hằng nhưng gia đình thỏ ai cũng khóc không nỡ rời xa. Thỏ cha liền nói: “Hằng Nga vì giải cứu bách tính mà bị liên lụy. Chẳng lẽ chúng ta lại đứng nhìn. Nếu đổi lại, người bị nhốt là ta thì các con có chịu ở cạnh cùng ta không? Chúng ta không chỉ nghĩ tới bản thân mình được.”

Sau đó, thỏ út rất hiểu lòng cha mẹ, chào từ biệt anh chị em và bay lên cung trăng ở cùng chị Hằng.

5. Sự tích bánh Trung thu

Tại một vương quốc nọ, vào ngày rằm tháng 8 vua cùng hoàng hậu uống trà thưởng nguyệt. Bất chợt vua phát hiện món bánh ngon kỳ lạ đặt tên là bánh Nguyệt. Từ đó, loại bánh này được phổ biến rộng rãi khắp kinh thành để muôn dân hưởng phúc.

Chính vì vậy ăn bánh trung thu ngày rằm được giữ gìn cho tới thời hiện đại. Mọi thành viên trong gia đình quây quần tụ họp bên mâm cỗ bánh nướng bánh dẻo. Bánh thường có hình tròn với hoa văn độc đáo tượng trưng cho sự đoàn viên sum vầy.

Trung thu

Sự tích Tết trung thu ở Việt Nam cực kỳ thú vị và ý nghĩa - 5

6. Sự tích phá cỗ đêm trăng rằm tháng 8

Tại Việt Nam, tục phá cỗ Trung thu được du nhập không biết từ khi nào và ghi chép lại trong cuốn “Việt Nam Phong Tục” của ông Phan Kế Bính. Thường phong tục của người Việt là ban ngày nhà nhà làm cỗ gia tiên, tối đến bày cỗ thưởng Nguyệt. Anh em và cả gia đình đoàn tụ bên mâm cỗ tròn đầy, bố mẹ kể những câu chuyện sự tích đêm rằm cho con cái.

7. Sự tích đèn ông sao

Có 2 cha con ở ngôi làng nọ kiếm sống bằng nghề làm đèn Trung thu. Công việc hay diễn ra quanh năm khiến người con nhàm chán với chiếc đèn đơn điệu, không hấp dẫn. Một đêm mải ngắm trăng, người con thấy vệt sáng 5 màu tuyệt đẹp lấp lánh kéo dài hình 5 cánh sao. Vì vậy chàng trai ra vườn sau hì hục đốn tre chuốt trẻ thành từng mảnh nhiều kích cỡ rồi tháo lắp làm hình đèn ông sao.

Đêm trung thu khi rước đèn qua ngõ 2 cha con, đám trẻ con hào hứng trước quầng sáng ở góc nhà. Hai cha con đã tặng chúng chiếc đèn lấp lánh, quá háo hức chúng mang đi khắp làng. Dần lan truyền rộng rãi, chiếc đèn trung thu ngôi sao đã phổ biến ở nhiều vùng và được nhiều trẻ em lấy làm đồ chơi trong dịp lễ đặc biệt này.

8. Ngắm trăng (Thưởng nguyệt) 

Vào Trung thu trăng rất to và tròn vì vậy thú vui ngắm trăng dịp này trở nên thịnh hành và được thể hiện nhiều trong thơ ca. Vào ngày này, trẻ em đón tết có đèn xếp, đèn lồng, đèn ông sao, đèn con giống… sặc sỡ thắp sáng kéo nhau đi từng đoàn ca hát vui vẻ, tối tối cùng nhau đi nhởn nhơ ngoài đường, ngoài ngõ. Và khi rằm tới, có những đám múa sư tử với tiếng trống, tiếng thanh la thật náo nhiệt. Để thưởng trăng có rất nhiều cuộc vui được bày ra. Hay đơn giản chỉ là việc ngồi thưởng trà mạn cùng bánh ngọt và ngắm trăng cùng người thân bạn bè.

9.Sự tích múa lân và ông Thổ Địa

Dân gian tương truyền, vị thần Thổ địa thường ban phước sự giàu có trù phú không làm hại ai. Ông dụ con Kỳ Lân xuống trần gian để giúp dân lành hưởng thái bình làm ăn khấm khá.

Cứ mỗi dịp tết trung thu con lân theo sau ông Địa đi trước phe phẩy quạt mo tươi cười nhộn nhịp ban phước lộc cho buôn làng.

Trên đây là những câu chuyện sự tích Tết trung thu ý nghĩa và thú vị. Hy vọng sẽ cung cấp cho bạn những kiến thức tổng quát cụ thể hiểu rõ hơn về ngày tết trung thu trong văn hóa dân gian Việt Nam.

 

Theo tích xưa, Tết Trung thu bắt đầu từ đời nhà Ðường, thời vua Duệ Tôn, niên hiệu Văn Minh. Năm ấy vào đêm khuya rằm tháng tám, gió mát, trăng tròn thật đẹp, trong khi ngự chơi ngoài thành, nhà vua gặp một vị tiên giáng thế trong lốt một ông lão đầu bạc phơ như tuyết. Vị tiên hóa phép tạo một chiếc cầu vồng, một đầu giáp cung trăng, một đầu chám mặt đất, và nhà vua trèo lên cầu vồng đi đến cung trăng và dạo chơi nơi cung Quảng. Trở về trần thế, vua luyến tiếc cảnh cung trăng đầy thơ mộng, nhà vua đặt ra tết Trung thu.

Ngày Tết này sau đó du nhập vào Việt Nam. Trong ngày Tết Trung thu người ta bày cỗ với bánh trái hình mặt trăng, treo đèn kết hoa, nhảy múa ca hát, múa lân rất tưng bừng. Nhiều nơi có những cuộc thi cỗ, thi làm bánh của các bà các cô. Trẻ em có những cuộc rước đèn và nhiều nơi có mở cuộc thi đèn. Nhiều gia đình bày cỗ riêng cho trẻ em và trong mâm cỗ xưa thường có ông tiến sĩ giấy đặt ở nơi cao đẹp nhất, xung quanh là bánh trái hoa quả… Giờ vào dịp Trung thu, các địa điểm dân phố hoặc TTTM lớn đều có tổ chức trang trí và các hoạt động riêng cho trẻ em lại là nơi được nhiều vị phụ huynh lựa chọn đưa các bé đến cùng vui chơi, chụp ảnh.

Theo các nhà khảo cổ học thì Tết Trung thu ở Việt Nam có từ thời xa xưa, đã được in trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Còn theo văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ đời nhà Lý, Tết Trung thu đã được chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Đến đời Lê – Trịnh thì Tết Trung thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ Chúa mà “Tang thương ngẫu lục” đã miêu tả.

Học giả P.Giran (trong Magiet Religion, Paris, 1912) khi nghiên cứu về nguồn gốc Tết Trung thu đã chỉ ra rằng từ xa xưa, ở Á Đông người ta đã coi trọng Mặt Trăng và Mặt Trời như một cặp vợ chồng. Họ quan niệm Mặt Trăng chỉ sum họp với Mặt Trời một lần mỗi tháng (vào cuối tuần trăng). Sau đó, từ ánh sáng của chồng, nàng trăng mãn nguyện đi ra và dần dần nhận được ánh dương quang – trở thành trăng non, trăng tròn, để rồi lại đi sang một chu kỳ mới. Do vậy, trăng là âm tính, chỉ về nữ và đời sống vợ chồng. Và ngày Rằm tháng 8, nàng trăng đẹp nhất, lộng lẫy nhất, nên dân gian làm lễ mở hội ăn Tết mừng trăng. Còn theo sách “Thái Bình hoàn vũ ký” thì: “Người Lạc Việt cứ mùa thu tháng Tám mở hội, trai gái giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau”. Như vậy, mùa thu là mùa của thành hôn.

Việt Nam là một nước nông nghiệp nên nhân lúc tháng 8 gieo trồng đã xong, thời tiết dịu đi, là lúc “muôn vật thảnh thơi” (bia chùa Đọi 1121), người ta mở hội cầu mùa, ca hát vui chơi Tết Trung Thu

Ý nghĩa ngày Tết Trung thu

Trải qua hàng ngàn năm, con người luôn cho rằng có mối liên hện giữa cuộc đời và vầng trăng. Trăng tròn và trăng khuyết, niềm vui nỗi buồn, sự đoàn tụ, sum họp hay chia tay. Cũng từ đó trăng tròn là biểu tượng của sum họp và Tết trung thu cũng được gọi là Tết đoàn viên.

Trong ngày vui này, theo phong tục người Việt, tất cả các thành viên trong gia đình đều mong muốn quây quần bên nhau cùng làm cỗ cúng gia tiên.
Khi đêm xuống, mặt đất ngập tràn ánh trăng vàng, xóm làng cùng nhau tụ họp uống nước chè xanh, ăn bánh, ngắm trăng và bày hoa quả, bánh kẹo cho trẻ em vui chơi, rước đèn, múa Lân, trông trăng, phá cỗ…

Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *